Sống khỏe

Cái gốc của sống khỏe là sức khỏe. Có sức khỏe tốt là có tất cả! Không có sức sức khỏe tốt thì mọi thứ đang có: Tiền tài, danh vọng đều vô nghĩa. Làm gì để có sức khỏe tốt? Trước khi trả lời câu hỏi này cẫn thống nhất nhận định: Thế nào là một người có sức khỏe tốt?. Năm 1978, tại Alma – Ata thủ đô nước Cộng hoà Kazakstan đại diện những người làm công tác y học trên toàn thế giới (WHO - World Health Organization) đưa ra nhận định: “sức khoẻ” được hiểu là “tình trạng thoải mái cả về thể chất, tinh thần và xã hội (tức về quan hệ xã hội), chứ không phải là tình trạng không có bệnh tật, hoặc không bị chấn thương” (1). Đối chiếu với đời sống hiện thực của con người thì định nghĩa về sức khỏe nói trên cần được xem xét lại. Bởi vỉ, nói sức khỏe là một trạng thái hoàn toàn thoải mái cả vể thể chất, tâm thần… thì người nghiện chất ma túy trong cơn “phê” thuốc họ thấy thỏai mái nhất cả về thể xác và tâm thần đó thôi, sự thoải mái đó đâu phải là sức khỏe? Đưa quan hệ xã hội vào nội hàm sức khỏe có khiên cưỡng không vì với tư cách là một cá nhân, đương sự không thể chủ động được trong quan hệ xã hội ở bất kỳ chính thể nào.

Theo quan điểm của Việt y cổ truyền, sức khỏe của con người được thể hiện thông qua hàng loạt kỹ năng sống riêng có của từng người. Cái gì làm nên kỹ năng sống của con người? Đó là trí thông minh? Trí thông minh từ đâu ra? Từ tư duy. Tư duy là bản năng riêng có của con người. Con người sở dĩ chiếm lĩnh được vị thế là chúa tể của muôn loài là nhờ có tư duy.

Như mọi người đều biết: sự sống là một quá trình liên tục thích nghi của chủ thể với ngoại cảnh. Lịch sử diễn thế trên lớp vỏ trái đất cho ta câu trả lời đó. Biết bao loài vật đã bị tuyết chủng, chỉ vỉ không thích nghi được với biến đổi của ngoại cảnh, duy chỉ có con người chẳng những sống sót trước bao biển đổi thất thường của ngoại cảnh mà còn còn phát triển theo thời gian. Thích nghi là điều kiện bắt buộc để cơ thể sống của sinh vật tồn tại. Một sinh  vật không còn khả năng thích nghi, sinh vật đó phải chết. Các sinh vật chỉ biết thích nghi bị động, riêng có con người ngoài bản năng sinh vật thích nghi bị động, nhờ biết tư duy nên còn biết thích nghi chủ động nữa. Con người sở dĩ chiếm được vị thế là chúa tể của muôn loài chính vì chỉ có con người mới biết  thích nghi chủ động. Chỉ có con người mới nhận biết được rằng: “Vấn đề không chỉ là nhận thức thế giới mà là cải tạo thế giới”.

Chúng tôi cho rằng tiêu chuẩn chính xác nhất để xác định sức khỏe con người là năng lực tư duy. Điều trị cho một bệnh nhân qua cơn hiểm nghèo, thầy chữa nói như reo lên: tỉnh táo lại rồi! Tỉnh táo có nghĩa là hồi phục năng lực tư duy, mặc cho thể lực còn yếu ớt chưa cử động mạnh được. Tỉnh táo là cách nói thông thường chỉ năng lực tư duy đồng thời nó cũng là chỉ báo cho sự sống , vì thế mà Việt y cổ truyền chọn tiêu chuẩn này làm cốt lõi của sức khỏe con người. Một người có sức khỏe tốt là người luôn tỉnh táo và sáng suốt trong mọi biểu hiện sống của mình, một người có đời sống như thế là Sống Khỏe.

Người có Cuộc Sống Khỏe không hẳn là người không có bệnh tật gì. Bệnh tật chẳng qua là những biểu hiện bất thường của một bộ phận nào đó trong cơ thể, là diễn thế tự nhiên quá trình cơ thể thích nghi với môi trường sống. Hơn 90% biểu hiện bệnh tự khỏi nhờ sức đề kháng của cơ thể. Tạo hóa đã bổ trí trong cơ thể con người sinh học của chúng ta hàng loạt Hệ thống tự bảo vệ làm nên sức đề kháng kỳ diệu đó. Hệ thống miễn dịch nổi tiếng như mọi người đều biết từ lâu đã giúp cơ thể tự chữa lành nhiều bệnh. Vào những năm cuối của thế kỷ 20 nhờ có tiến bộ vượt bậc của Ngành Y học khoa học con người đã biết tường tận một hệ thống đề kháng nữa là cơ chế “tự điều chính của cơ thể”. Chính nhờ cơ chế này mà đã giúp con người thoát khỏi nhiều bệnh tật mà bấy lâu không biết bệnh tự khỏi vì đâu. Người ta bước đầu nhận ra cấu trúc kỳ diệu của tế bào không chỉ ở trong nội bào mà còn ở thành ngoài tế bào nữa. Đi sâu vào những phát hiện mới, đã giúp con người có nhận thức đúng về cơ chế hoạt động của tế bào. Hiện nay, Sinh - Y học hiện đại mới nhận biết được hai loại đại phân tử ở thành ngoài tế bào có vai trò quyết định đến cơ chế hoạt động của tế bào là đại phân tử protein xuyên màng - tức các thụ thể của từng loại tế bào (tế bào đích) và 4 đại phân tử làm thành “các chất cơ bản ngoai tế bào” là đại phân tử Collagen (chất tạo keo); Elastin; Proteoglycan; và Glycoprtein cấu trúc.

- Về loại protein xuyên màng, tức là các thụ thể ở các tế bào Đích qua một thời gian dài tranh cãi người ta đã thống nhất ý kiến: Thụ thể! sự tiếp xúc giữa tế bào và môi trường (trong cơ thể) được bảo đảm nhờ một cơ chế các trạm bao gồm các “tin” (hormoes, cytokins, yếu tố tăng trưởng…) và các thụ thể của chúng trên bề mặt tế bào. Các thụ thể này phần lớn là các protein xuyên màng, cố định trong màng tế bào có khả năng nhận biết tin và một phần trong tế bào có trách nhiệm truyền tin vào trong tế bào. Việc truyền tin này thực hiện bằng một ghép đôi (giữa) thụ thể phần ở trong tế bào với các protein xuyên màng có thể làm tăng thêm hoặc giảm đi tỷ giá “các chất đưa tin thứ hai” (AMP – vòng và GMP- vòng cũng như các inositol – phosphat và các chất chuyển hoá của nó inostol tripho sphat, IP3 và điacylglceron, DAG). Các chất đưa tin thứ hai này đến lượt chúng tác động trên nồng độ calci tự do nội bào (Ca++i ) tăng lên nhanh chóng bằng cách mở các kênh calci và giải phóng các ổ tàng trữ nội bào… Việc phosphoryl hoá và khử phosphoryl hoá nhanh các thụ thể bị proteinkinase và proteinphosphatase xúc tác, là một bộ phận của chuỗi di truyền tin. Một số lớn các thụ thể và các tin, đều sử dụng những con đường này để truyền tin. Tính đặc hiệu của tin được bảo đảm bằng sự can thiệp có chọn lọc một số chất truyền tin G - protein, phosphokinase dẫn tới họat hoá có chọn lọc sự sao chép của một số gen tương ứng với tin nhận được.

Các bơm calci chỉ huy sự tự động điều hoà các lưu lượng ion can xi qua màng. Khi một hormon cùng hoạt động với thụ thể của nó, số lượng ion can xi vào trong tế bào tăng. Sự gia tăng nồng độ cận màng về ion calci (ca2+sm) kích thích một bơm calci bằng cách hoạt hoá một protein gắn các ion calci, chất calmodulie và một enzym, chất proteinkinase C (PKC). Bơm calci cân bằng sự vào và ra của các ions calci trong tế bào. Sự gia tăng nồng độ cận màng về ion calci, kết quả của sự tái chu kỳ là một kiểu tín hiệu mới calci.

Thông qua diễn giải chức phận của các thụ thể ở các tế bào đích, các nhà khoa học đã mô tả được một khâu quan trọng trong quá trình cơ thể sản xuất hormon và tiêu dùng chúng đã cho thấy trong cơ thể người có một xa lộ thông tin vẫn cần mẫn hoạt động mà phải đợi đến những thập niên cuối của thể kỷ 20 mới được ghi danh đó là là “Hệ thần kinh dịch thể”.

Hệ thần kinh này khác hai hệ thần kinh đã biết là hệ thân kinh điều khiển và hệ thần kinh sinh dưỡng đều có đường dây truyền tin (mạng lưới dây thần thần kinh). Ở Hệ thần kinh dịch thể, thông tin được bao gói trong các chất Hormon, các chất Cytokins (dịch bào trung gian) đều ghi địa chỉ nơi nhận rất rõ ràng (các thụ thể của các tế bào đích) và được vận chuyển bằng “đường thuỷ”, tức là trong dòng máu lưu thông.

Đi sâu vào khám phá bí ẩn của cơ thể sống người ta nhận ra cái gọi là “cơ chế tự điều chỉnh” rất tinh vi mà Tạo Hoá đã thiết kế ngay từ trong phôi khi hình thành mầm sống của con người, Hệ thần kinh dịch thể là một trong những sự kỳ diệu bí ẩn đó. Để hỗ trợ cho Hệ thần kinh dịch thể hoạt động hiệu quả phục vụ cho sự tồn tại và phát triển của các tế bào còn có một bí ẩn nữa đã được khám phá từ lâu, nhưng cũng phải đợi đến cuối thế kỷ 20 mới được khảng định: Bí ẩn đó là chức phận của các chất cơ bản ngoài tế bào người.

- Các chất cơ bản ở thành ngoài tế bào:

Hiện nay mới khẳng định được 4 đại phân tử: 1.Collagen, 2.Elastin, 3.Proteoglycan và 4.Glycoprotein cấu trúc. Phần lớn các tế bào của cơ thể đều có thể tiết ra một số đại phân tử này theo một chương trình đã được thiết lập ngay từ trong phôi và đi hết cuộc đời của một tế bào. Mỗi loại tế bào liên kết ở mỗi mô có một chương trình riêng để tiết ra các đại phân tử này có cấu trúc tương thích với chức phận từng mô bảo đảm vai trò sinh học của mô trong cơ thể sống. Những vai trò sinh học đó là: sự đàn hồi của các mạch máu và phổi; sức bền cơ học của xương; sự dẻo dai của gân; sự mềm mại của làn da; v.v... Điều quan trọng nhất là các chất cơ bản ở thành ngoài tế bào còn có chức phận điều hợp các tế bào trong các mô và các mô trong một cơ quan của cơ thể. Các chất cơ bản đó chính là  một “cơ liên kết” trong việc điều hợp các tế bào tham gia trong cấu trúc chức năng (ở cấp độ toàn thân là co dãn cơ trong vận động; ở cấp tế bào là “đóng mở” các van điều  hoà trong vận chuyển các chất qua màng tế bào).

Cấu trúc của các đại phân tử ngoài thành tế bào thường là các nguyên bào sợi được lồng vào giữa các thành phần cấu tạo của chất cơ bản mà nó tạo nên. Các chất cơ bản ở thành ngoài tế bào thực thi vai trò điều hợp bằng co dãn cơ trong mỗi bó cơ của tấm liên kết. Toàn bộ bó cơ có một mô bao bọc, mô này lại có một gân gắn vững chắc vào xương (khi ta muốn róc thịt ra khỏi xương rất khó thực hiện chỉ bằng lực cơ học mà phải dùng nhiệt mới tách được hết thịt ra khỏi xương chính là do cơ chế bám xương này đây).

Cùng với việc khảng định chức danh cho Hệ thần kinh dịch thể và công nhận chức phận các chất cơ bản ngoài tế bào, người ta đã ghi nhận được sự phối hợp kỳ diệu giữa chúng với nhau góp phần quan trọng vào toàn bộ sự tạo thành cái gọi là “cơ chế tự điều chỉnh của cơ thể”. Cơ thể là một khối thống nhất, nhưng là sự thống nhất trong liên lập, trong sự phối hợp nhịp nhàng đồng bộ của các cơ quan chức năng tạo nên sự sống. Như vậy là cần có một cơ chế phối hợp các cơ quan chức năng để tạo nên sự thống nhất, tạo nên sự sống đó trên phạm vi toàn cơ thể. Nhưng địa chỉ cụ thể nơi diễn ra sự phối hợp đó lại chính là các thụ thể cùng các chất cơ bản ngoài tế bào của hệ thống tế bào chuyên biệt. Tuy nhiên, đó mới là địa chỉ, nơi tiếp nhận và sử lý thông tin. Linh hồn của sự phối hợp các chức năng của cơ thể là thông tin.

Các chất đưa tin hoá học được con người biết đến sớm nhất là các hormon; các “gói tin” này được chế tạo và bao gói từ các tế bào chuyên biệt của các tuyến nội tiết, kế đến là các chất trung gian của hệ thần kinh sinh dưỡng (còn có tên gọi khác là Hệ thần kinh tự động; Hệ thần kinh thực vật) và của cả hệ thần kinh Trung ương nữa. Con người lại phát hiện tiếp được các chất tăng trưởng, như FGF, PDGF, IGF do các tế bào chuyên biệt tiết ra để thông tin cho các tế bào khác và làm vững bền thêm nguồn tin mà nó mới phát ra bằng cách hấp thu trở lại một phần các chất mà nó mới tiết ra. Thông tin của các chất hormon không chỉ làm tăng sinh các tế bào đích mà còn là nhân tố có tính quyết định đến sự tăng sinh tổng hợp cho toàn cơ thể.

Các chất đưa tin khác như các Cytokin, TGF, Limphokin là hoạt động thường xuyên để duy trì các chức năng trong trạng thái bình thường hoặc chỉ báo hiện tượng cơ thể có bệnh và động viên tổng lực sức đề kháng của toàn cơ thể đáp  ứng miễn dịch, lập lại sự cân bằng cơ thể.

Ví dụ: Interleukin-1( IL-1) dịch bào đưa tin tế bào bị viêm khích thích CD4 sản xuất Interleukin-2 (IL-2) đồng thời kích thích hình thành thụ thể đối với IL-2 trên một số tế bào T khác. Do tác động của IL-1 làm tăng sinh tế bào T giúp đỡ (CD4), tế bào T ức chế gây độc (CD8) và các tế bào hệ B. IL-1 còn giữ chức phận huy động các tế bào bạch cầu trung tính từ tuỷ xương đến đúng địa chỉ đang có phản ứng viêm.

Chúng ta theo dõi tiếp sự phối hợp chức năng đáp ứng miễn dịch kỳ thú của các dịch bào trung gian (gian bào) này:

Tế bào T giúp đỡ (CD4) khi được hoạt hoá lập tức sản xuất ra Interleukin-2 (IL-2). Chất này chỉ có tác dụng trên các tế bào limpho. IL2 lập tức gắn vào thụ thể IL-2 do IL-1 kích thích tạo ra. Đặc biệt là IL-2 không gắn lên các tế bào Limpho chưa được hoạt hoá (ở trạng thái nghỉ), nhưng IL-2 lại kích thích tất cả các tế bào có mang thụ thể IL-2 bất chấp tế bào đó thuộc tiểu lớp nào và có mang đặc hiệu kháng nguyên nào. IL-2 là một động lực chính kích thích tăng sinh dòng tế bào Limpho hệ B.

 Tế bào Limpho T được hoạt hoá còn sản xuất ra nhiều biệt chất có giá trị miễn dịch đặc hiệu, như: IL-3; chất gây hoại tử uTNF từ viết tắt của thuật ngữ: Tumour Necrosis Factor; IL-4 chất kích thích tế bào B và có cả gamma Interfron nữa.

Bí ẩn của cơ chế phối hợp các chức năng được khám phá đã góp phần làm rõ là các tế bào đích có các thụ thể chuyên biệt nhận biết “tin” chuyển vào trong tế bào để giải mã tin qua tin nhận được lập tức có sự thay đổi cách hoạt động của nó cho phù hợp với tin mới nhận được.

Các thụ thể cũng không đơn thuần thụ động hiền lành ngoan ngoan ngoãn cần cù làm công việc của người đưa tin mà nó cũng có hiện tượng “có ý kiến” độc lập với "tin” nhận được và các biểu hiện độc lập này cũng tham gia vào sự điều hoà chung của cơ thể. Nguồn gốc của sự lạc điệu đó là do vì một nguyên nhân nào đó làm cho sự kết đôi giữa thụ thể phần trong tế bào với một protein trong nội bào không thuận gây rối loạn việc sao chép và dịch "tin". Để bổ khuyết cho hiện tượng này là cơ chế hoạt động của các chất cơ bản ngoài tế bào tức là 4 đại phân tử: Collagen; Elastin; Proteoglycan và Glycoprotein cấu trúc. Chức phận cùng cơ chế hoạt động của 4 Đại phân tử này đã nói ở phần trên, ở đây chỉ nói thêm về chức phận phối hợp chức năng của 4 đại phân tử này trong hoạt động của tế bào.

Tuy là sản phẩm trực tiếp của tế bào, nhưng các chất cơ bản ngoài tế bào lại tác động trực tiếp vào tế bào qua trung gian các thụ thể màng và truyền tin vào nội bào. Cơ chế này đã hạn chế được nguồn tin sai lệch do các thụ thể gặp sự cố đột ngột. Sự phối hợp chức năng giữa các thụ thể cùng chất cơ bản ngoài thành tế bào đã hình thành nên “một mạng tin” giữa nội bào và thành ngoài tế bào; đây chính là nền tảng của cái gọi là “cơ thể tự điều chỉnh” của cơ thể sống. Chính cơ chế này đã ngăn chặn rất nhiều chứng bệnh mới phát sinh đặc biệt là các tế bào đột biến gây ung thư.

Bệnh xuất hiện ở cơ thể người là chuyện thường ngày và nó luôn được cơ thể tự điều chỉnh chạy chữa lành bệnh. Chỉ khi nào toàn bộ hệ thống tự bảo vệ của cơ thể bị suy yếu thì bệnh sẽ hoành hành. Như vậy mỗi khi ta thấy “khó ở” thì lúc đó chính là thời điếm báo ta biết Hệ thống tự bảo vệ của cơ thể đã suy yếu. Nguyên nhân làm cho các Hệ thống tự bảo vệ của cơ thể bị suy yếu đều do chính con người sở hữu cơ thể đó gây ra, tức là chính ta đã gây bệnh cho ta.

Hiện tượng thường thấy là lạm dụng các chất kích thích quá liều đã kích hoạt toàn bộ các hệ thần kinh phản ứng lỗi nhịp làm nhiễu loạn thông tin dẫn tới phản ứng khác thường của các tế bào Đích. Khi chúng ta thấy tự dưng ăn không ngon miệng thì phải biết vì một thông tin sai lạc nào đó khiến thụ thể kích thích sự thèm ăn gắn ở một số tế bào thần kinh trung ương đã đóng lại khiến cho toàn bộ hệ thống tiêu hóa bình đình trệ. Ví dụ: trước khi ăn cơm ta đã uống quá nhiều rượu. Men rượu kích hoạt hệ thống tuần hoàn tăng tốc: tim đập nhanh cần rất nhiểu ô xy, buộc phải thở gấp, mở miệng rất to nói năng huyên thuyên là để hớp được nhiều khí trời, cơ thể lúc này lâm vào tình trạng đói ô xy, nhịp hô hấp tế bào trùng lại không còn khả năng tiếp thu a xít amin nên “no” giả tạo. Dân gian đã tổng kết “Những ông uống rượu thì ngừng ăn cơm” là như vậy đó

Trên đây chỉ là một ví dụ nhỏ trong muôn vàn hành vi “ta tự gây bệnh cho ta”. Sống khỏe là hạn chế đến mức thấp nhất hành vi làm tổn thương đến các hệ thống tự bảo vệ cơ thể mà Tạo hóa đã ban tặng cho mỗi người chúng ta.

Việt y cổ truyền lấy năng lực tư duy làm thước đo sức khỏe con người, bởi vì khi con người còn khả năng tư duy sáng suốt thì không bao giờ lại đang tâm hủy hoại hệ thống tự bảo vệ cơ thể mình. Bệnh chỉ xuất hiện khi ta làm tổn thương đến hệ thống tự bảo vệ cơ thể, Việt y cổ truyền có hẳn một quy trình thăm khám bệnh đã trình bầy trong công trình nghiên cứu “Y học Dân gian nước Việt” đang đăng  trên trang tin điện tử này. Để giản tiện, bạn có thể ứng dụng một phần kỹ thuật thăm khám bệnh ở công trình đó để tự kiểm tra sức khỏe hàng ngày của mình.

Việt y cổ truyền cho rằng một con người có sức khỏe bình thường thì “Tứ diện hiện sinh” là: Ăn, Ngủ, Làm tình và Bài tiết đều tốt. Nếu bạn phát hiện thấy một khâu nào đó bị trục trặc thì phải đến thầy chữa để kiểm tra và tiến hành điều trị ngay thì luôn tránh được bệnh tật. Cách tốt nhất là không nên để khi có dấu hiệu bệnh mới đi khám bệnh mà phải phòng bệnh ngay từ lúc nó chưa hình thành.

Việt y cổ truyền mở chuyên mục Sống Khỏe là nhằm giúp bạn có những hiểu biết cần thiết để phòng bệnh cũng có nghĩa là Sống Khỏe. Bạn đón đọc các thông tin mới của chúng tôi về Sống khỏe.

_Việt Y Cổ Truyền_
"Nhận chữa các bệnh nan y, mãn tính bằng thuốc cổ truyền thuần việt"

Đối tác: Ngân hàng Agribank
Đối tác: Ngân hàng BIDV
Đối tác: Ngân hàng Vietinbank
Đối tác: Công ty thiết kế web ADC
Đối tác: Sông Đà Việt Đức